LỊCH SỬ DÂN CƯ XÃ CÔNG CHÍNH
Với đặc thù vừa là nơi quần cư của 3 dân tộc anh em (Kinh, Thái, Mường) cùng sinh sống (tuy nhiên các dân tộc Thái, Mường đã sinh sống lâu với người Kinh và hầu như các phong tục tập quán cũng sinh hoạt như người Kinh). Trong đó: Dân tộc kinh chiếm đa số với 1.887 hộ; 7.838 nhân khẩu, dân tộc Thái với 40 hộ; 201 nhân khẩu, còn lại là dân tộc Mường với 10 hộ; 55 nhân khẩu, vừa là nơi có cả đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo thuộc Giáo hạt Thái Yên sinh sống với 834 hộ, 3.700 nhân khẩu chiếm 45,7% dân số, trải dài trên địa bàn 6 thôn, lại có cả đồng bào theo đạo Tin Lành sinh sống với 12 tín đồ. Tính đến nay, xã có trên 60 dòng họ cùng sinh sống trên địa bàn. Trong đó, các dòng họ Nguyễn, Lê, Hà, Trần...là những dòng họ cư trú lâu đời hay là chính gốc, các dòng họ còn lại là những dòng họ chủ yếu di cư từ các địa phương khác đến từ những năm đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp mở đồn điền Yên Mỹ và từ những năm 1947 đến 1979 theo chính sách di dân của Nhà nước mà đông nhất là từ Nghệ An ra và từ một số tỉnh miền bắc vào như: Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên...., từ các huyện miền biển lên như: Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hoằng Hoá...và từ các xã trong huyện đến. Điều này được thể hiện rõ nhất là ở xã có một số làng có tên rất cổ như: Giải Trại, Luật Thôn, Hoà Thôn (Làng Tam Hòa), Rọc Năn và một số làng có tên rất mới như: Tân Chính, Tân Luật, Thái Sơn, Thái Yên, Hồng Thái, Tân Tiến...